Trong ngành cà phê có rất nhiều cách để phân loại hạt như: kích thước, độ cao canh tác, số lượng khiếm khuyết, giống loài,…Nhằm hướng tới sự đồng đều hạt cà phê trước khi rang, cũng như như định hướng giá cả trên thị trường, người ta sẽ phân loại kích thước hạt cà phê.
Phân loại kích thước hạt cà phê trước khi đem rang và bán ra thị trường
Phân loại theo kích thước hạt cà phê là thước đo chung cho ngành cà phê. Trong đó nhân cà phê sau khi sơ chế sẽ được ray qua các tấm kim loại đục lỗ với đường kính khác nhau từ 8 đến 20/64 inch để phân loại.
Kích thước hạt cà phê được phân loại theo ray hạt
Cỡ sàng từ 8 đến 20, kích thước sàng theo tỷ lệ 1/64 inch. Sàng 18 nghĩa là 18/64 inch, quy ra đơn vị đo lường mm là 7,1mm, tương tự như vậy sàng 16 quy ra là 6,3mm.
Kích thước sàng được sử dụng như nhau ở mọi quốc gia sản xuất cà phê, nhưng tên lại hoàn toàn khác nhau. Ví dụ, một hạt cà phê rất lớn (19-20 1/64 inch) được gọi là AA ở Châu Phi và Supremo ở Colombia.
Hiện nay, để phục vụ nhu cầu chế biến sản xuất số lượng lớn, người ta sử dụng máy sàng để phân loại kích thước hạt cà phê. Tốc độ rung và biên độ rung công suất lớn, có thể làm 12-14 tấn nguyên liệu xô / giờ.
Máy sàng kích thước hạt cà phê 2 ray
Tuy nhiên, việc phân loại kích thước hạt cà phê khó có thể chính xác 100%. Chẳng hạn, do mật độ cao nên một số hạt tuy nhỏ nhưng không rớt xuống được. Vì vậy trong hệ thống quy chuẩn phân loại của mình, SCA cho phép chênh lệch 5% với các phép đo sàng (nghĩa là trong 100 hạt cà phê trên sàng 18 được phép có 5 hạt nhỏ hơn hoặc lớn hơn).
Cũng như nấu chín khoai tây, khối lượng càng lớn càng tốn nhiều thời gian để làm chín. Hay khi giữa các củ khoai to nhỏ khác nhau, sẽ chín không đồng đều. Hạt cà phê cũng vậy, càng to thì quá trình rang diễn ra càng lâu, vì vậy trước khi rang ta phải đảm bảo rằng mỗi lô cà phê có kích thước hạt nhân đồng đều nhằm giúp quá trình rang diễn ra nhất quán và do đó chất lượng thành phẩm tốt hơn.